Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm tọa lạc trên một khu đất khá rộng, thoáng mát, cạnh quốc lộ 1A, thuộc thôn Văn La, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình. Hoàng Kế Viêm là một văn thân sĩ phu có tấm lòng yêu nước mãnh liệt, tinh thần dũng cảm, quyết tâm chiến đấu chống Pháp đến cùng bảo vệ nền độc lập dân tộc. Cuộc đời, sự nghiệp lẫy lừng của ông đã gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam thời kỳ chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, được nhân dân và những người yêu nước kính trọng.
Di tích lịch sử đền tưởng niệm Liệt sỹ Trường Sơn Bến phà Long Đại
Hoàng Kế Viêm còn gọi là Hoàng Tá Viêm (Tá là là tên lót do vua Minh Mạng đặt), tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, quê làng Văn La tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh (nay thuộc xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thìn (29/8/1820), mất ngày 8 tháng 4 năm 1909. Thân sinh Hoàng Kế Viên là cụ Hoàng Kim Xán, giữ chức Bố Chánh tỉnh Khánh Hòa dưới triều Gia Long, rồi làm Thượng thư Bộ Hình, Bộ Lễ, sung Tổng tài thời vua Minh Mạng, nổi tiếng là hiếu trung, thanh liêm, đức độ. Hoàng Kế Viêm kết duyên với con gái thứ năm của vua Minh Mạng là Công chúa Hương La, nhưng chẳng được bao lâu thì Công chúa qua đời.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, thừa hưởng tư chất thông minh và tinh thần ham học hỏi của bậc sinh thành, lại được sống trong một gia đình luôn coi trọng đạo hiếu trung, lấy đó làm chuẩn mực đạo lý ở đời, Hoàng Kế Viêm đã sớm trưởng thành trên con đường lập thân.
Năm 1843, ông thi đỗ cử nhân và được bổ làm Tư vụ, hàm Quang Lộc Tự Khanh. Năm 1846, đời vua Thiệu Trị, ông làm Lang Trung Bộ Lại. Đến đời Tự Đức (1850), thân mẫu của ông mất, ông về quê cư tang mẹ nhưng chưa mãn tang thì nhận được chiếu triệu của vua Tự Đức về Kinh giữ chức Án sát tỉnh Ninh Bình (1852), Năm 1854, ông được thăng Bố Chính tỉnh Thanh Hoá: năm 1859 là Bố Chính kiêm Tuần Vũ tỉnh Hưng Yên, năm 1863, ông giữ chức Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An -Hà Tĩnh). Trong thời gian này, ông đã có công trong việc trị an, mở mang kinh tế, phát triển dân sinh. Khi làm Tổng đốc An – Tĩnh, Hoàng Kế Viêm đã góp công lớn trong việc xây dựng kênh mương, phát triển 152 thủy lợi. Ông cùng với Nguyễn Trường Tộ kêu gọi, động viên nhân dân tập trung sức người, sức của khai thông sông kênh Thiết Cảng (kênh Sắt), nối liền giao thông đường thủy giữa hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hoá giúp phát triển sản xuất- điều mà Tiết độ sứ Cao Biền thời nhà Đường (618 – 905) và sau này Hồ Quy Ly (thế kỳ XV) không thể làm được.
Năm 1870, thời gian này ở Bắc Kỳ xảy ra nhiều biến loạn, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành, cướp phá, quấy nhiễu nhân dân, Pháp âm mưu chiếm vùng sông Hồng để được tự do buôn bán với Vân Nam và Hoa Nam (Trung Quốc), khiến cho tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước tình hình đó, triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng – Bình – Ninh – Thái, trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết lo việc dẹp loạn, ổn định Bắc Kỳ. Với kế sách “vừa đánh vừa dụ hàng”, chỉ sau một thời gian ngắn, Hoàng Kế Viêm đã thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen là tướng Lưu Vĩnh Phúc, cùng hợp sức đánh tan giặc nổi loạn Cờ Trắng, Cờ Vàng, mà trước đó các tướng lĩnh của triều đình không thể dẹp được.
Nhờ vào công lao này, ông được phong hàm Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ. Thời kỳ này, ở Bắc Kỳ có nhiều giặc giã nên triều đình đã đặt ra chức Tĩnh biên sứ để trấn giữ các vùng: Lạng – Giang đạo, do Tĩnh biên phó sứ Trương Quang Đản phụ trách, Đoan Hùng đạo do Tĩnh biên phó sứ Nguyễn Hữu Độ nằm giữ. Hoàng Kế Viêm được phong Tĩnh biên sứ kiêm cả hai đạo.
Năm 1873, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Đại uý F.Garnier đánh chiếm thành Hà Nội và nhiều tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng. Hoàng Kế Viêm được triều đình cử làm Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ (chức vụ quân sự cao nhất ở Bắc Kỳ) để chỉ huy, đôn đốc việc phòng thủ, chống Pháp. Ngày 19/11/1873, chính quyền Pháp ở Nam Kỳ cử Đại úy F.Ganier ra Hà Nội, lôi kéo cả quân Cờ Vàng chuẩn bị tấn công thành Hà Nội. Chúng cho quân bình định vùng châu thổ sông Hồng, chỉ sau một thời gian ngắn, bốn tỉnh Hưng Yên, Hải Dương. Ninh Bình, Nam Định đã rơi vào tay Pháp, binh lính ở thành Ninh Bình đã hạ vũ khí đầu hàng. Lúc này, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã bị thương nặng và qua đời sau đó, xung đột ở Bắc Kỳ càng trở nên căng thẳng.
Trước tình thế đó, buộc Hoàng Kể Viêm phải gấp rút chuẩn bị tổ chức lực lượng để chống trả. Là chỉ huy cao nhất tại Bắc Kỳ và là cấp trên trực tiếp của Lưu Vĩnh Phúc, ông đã liên lạc với quân Cờ Đen, đưa quân Cờ Đen từ Hưng Hoá về Sơn Tây để làm tiền phong đánh Pháp. Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân lính, Hoàng Kế Viêm hữa sẽ thưởng nhiều vàng cho mỗi tên Pháp bị giết, số lượng sẽ tăng lên theo cấp bậc. Ngày 18/12/1873, quân Cờ Đen về đến Hà Nội, đóng doanh trại ở gần cửa Tây thành. Biết được tin này, F.Garnier lập tức cho pháo khai hoả, quân lính Đại Nam và quân Cờ Đen bị đánh bất ngờ nên phải rút lui. Dưới sự chỉ huy của Hoàng Kế Viêm và tướng Lưu Vĩnh Phúc, quân ta đã tổ chức lực lượng mai phục ở Ô Cầu Giấy (Hà Nội). Pháp tiếp tục cho quân truy đuổi và bị lọt vào trận địa phục binh của quân Hoàng Kế Viêm, tên chỉ huy F.Garnier bị giết chết tại trận cùng nhiều sĩ quan, binh lính Pháp. Cái chết của F.Garnier đã đặt dấu chấm hết cho cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất của thực dân Pháp, Hà Nội – Bắc Kỳ được trả lại cho triều đình nhà Nguyễn.
Mười năm sau, năm 1883, Hoàng Kế Viêm lại chỉ huy quân dân Hà Nội đập tan cuộc tấn công của quân Pháp ở Cầu Giấy. Tháng 3/1882, Thống đốc Nam Kỳ phái trung tá H.Riviere đưa quân ra Bắc lấy cớ là triều đình Huế đã vi phạm các điều khoản của Hiệp ước Giáp Tuất (cấm và giết con chiên của chúa, không đảm bảo cho tàu buôn Pháp đi lại trên sông Hồng, tiếp tục có quan hệ với nhà Thanh) để tấn công thành Hà Nội.
Ngày 24/3/1883, H.Riviere chỉ huy quân Pháp ở Hà Nội tiến đánh Nam Định. Nhân thời cơ này, Hoàng Kế Viêm cho quân đóng ở Sơn Tây và quân của Trương Quang Đán ở Bắc Ninh cùng liên quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc kéo về vây quanh Hà Nội. Hoàng Kế Viêm cùng đội quân Cờ Đen bố trí phục binh, chờ sẵn địch ở Ô Cầu Giấy. Ngày 19/5/1883, khi H.Riviere dẫn cánh quân Pháp vượt qua khỏi Ô Cầu Giấy thì bị quân của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc từ các vị tí mai phục xông lên đánh bao vây, quân Pháp bị chia cắt làm đôi và bỏ chạy tán loạn. Trung tá chỉ huy quân Pháp H.Riviere bị trúng đạn chết tại trận. Sự kiện này đã đánh dấu thất bại lần thứ hai xâm lược Bắc Kỳ của thực dân Pháp. Sau thắng lợi ở Ô Cầu Giấy (Hà Nội) ngày 19/5/1883, Hoàng Kể Viêm đã cho quân tiếp tục xây dựng căn cứ ở Sơn Tây, quyết tâm chống Pháp ở cả Bắc Kỳ.
Cuối năm 1884, trên đường về Kinh qua đất Quảng Bình, Hoàng Kế Viêm đã dâng sớ xin nghỉ hưu về ở làng Văn La “long đảo địa” nhưng không được triều đình chấp nhận, xuống dụ buộc ông phải vào Huế.
Năm 1887, ông được thăng chức Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật Viện Đại thần.
Ngoài tài năng quân sự, Hoàng Kế Viêm còn là người hay chữ, ông làm thơ, viết văn, viết sử. Những tác phẩm của ông bằng Hán Nôm với bút danh Tùng An khá đa dạng và phong phú, có thể kế đến như: Trù Thiết sơn phòng sư Nhị tấn (tổng kết việc cũng cố an ninh vùng biên cương kết hợp với khai hoang và tăng gia sản xuất); Thần cơ yếu ngữ (sách giáo khoa cho bộ binh nói về cách sử dụng các loại vũ khí mới, cách bản súng, bảo quản vũ khí có tranh vẽ minh họa và các bài tập) , Hoàng Triều Văn Vũ thế tắc lệ (Những phép tắc cho các trường thi võ): Phê thị trần hoàn (Ghi chép về đời vua Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (Ghi lại thân thế và sự nghiệp của cha ông) ; Khổn y lục (Ghi lại tiểu sử công chúa Hương La); Chi chi thi thảo, Vân vân văn tận, An phủ trấp lược,.
Công lao, sự nghiệp của Hoàng Kế Viêm và những cống hiến lớm lao cho triều đình, cho đất nước trong suốt thời gian lãnh chức Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ, đặc biệt là hai lần chiến thắng vẻ vang ở Ô Cầu Giấy (Hà Nội) trước thực dân Pháp trong thời điểm lịch sử nhạy cảm thật đáng tự hào, trân trọng và ngưỡng mộ, Người dân địa phương truyền tụng về Hoàng Kế Viêm qua truyền thuyết, huyền thoại rằng: Khi về hưu, vua ban cho ông 4 mẫu ruộng nhất đẳng điền” tùy ý chọn nhưng ông chỉ chọn 4 mẫu đất cỏ hoang mà người làng Thế Lại dùng để nuôi trâu bò rồi ông vận động con cháu trong họ cùng dân làng đi khẩn hoang một vùng đất khác cạnh đó thành đồng ruộng hai mùa tươi tốt. Nhân dân gọi đó là Đồng cồn Hoàng ngàn mùa không mất. Ruộng khai phá xong, ông chia đều cho mọi người cày cấy.
Biết ơn ông, dân làng đã lập một đền thờ Thổ Công tại cánh đồng để hàng năm cúng tế. Ngày khai trương đền thờ, người dân thắp hương, đèn cúng khấn nhưng hương không cháy, đèn không đỏ, họ lấy làm kỳ lạ, hoảng sợ họ phải cho người về mời rước ông lên cúng. Từ đó về sau, đến kỳ cúng bái không còn ra chuyện như vậy nữa nên dân làng xem ông to hơn cả Thổ thần.
Tại Hội thảo “Hoàng Kế Viêm trong tiến trình lịch sử cận đại Việt Nam“. Trong tham luận “Những đóng góp của Hoàng Kế Viêm trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược cuối kỉ XIX, PGS.TS Hồ Khang – Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân đội Việt Nam đã đánh giá cuộc đời hoạt động của Hoàng Kế Viêm dù ở vị trí nào ông cũng thể hiện một lòng yêu nước mãnh liệt, tin thần dũng cảm, tính chủ động, quyết tâm chiến đấu chống giặc ngoại xâm đến cùng để bảo vệ độc lập dân tộc. Với những chiến công xuất sắc trong công cuộc đánh giặc giữ nước, Hoàng Kế Viêm đã trở thành danh tướng quân sự tiêu biểu và đóng vai trò to lớn trong phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX.
Di tích và nhà thờ Hoàng Kế Viêm là một nguồn tư liệu quan trọng để chúng ta hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của ông, về thời kỳ chống Pháp bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta nửa sau thế kỷ XIX, đầu kỷ XX. Qua đó, hiểu được phần nào về tinh thần thượng võ, truyền thống văn hóa của quê hương ông – làng Văn La xưa – một trong “bát cảnh” đã đi vào tiềm thức dân gian của nhân dân Quảng Bình: “Sơn – Hà – Cảnh – Thổ – Văn – Võ – Cổ -Kim”
Comments